Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác
Đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh tả cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực nhà Chúa qua cái nhìn của tác giả lần đầu tiên được vào phủ chúa.
Quang cảng và những sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một người thầy thuốc miền quê lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ này (tác giả tuy là “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa”, từng biết nhiều nơi trong cấm thành, nhưng việc trong phủ chúa thì “chỉ mới nghe nói”).
a. Quang cảnh trong phủ chúa vô cùng sa hoa, tráng lệ và không kém phần thâm nghiêm, nói lên quyền uy tột bậc của nhà Chúa.
– Khi vào nhà chúa phải đi qua nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”.
– Khuôn viên trong phủ chúa, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Điều đó cho thấy chúa giữ vị trí trọng yếu và có uy quyền tối thượng trong triều đình.
– Bài thơ của tác giả chứng minh rõ thêm sự uy quyền và sang trọng của phủ chúa.
Lính nghìn của vác đòng nghiêm ngặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ cung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đôi phen.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
– Những lời lẽ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ: Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử (xem mạch cho thế tử), hầu trà (cho thế tử uống thuốc), phòng chè (nơi thế tử uống thuốc)…
– Chúa Trịnh luôn luôn có “phi tần chầu trực” xung quanh. Tác giả không thấy được mặt chúa mà chỉ làm theo mệnh lệnh chúa do quan Chánh đường truyền đạt lại, xem bệnh cong cũng không được phép trao đổi mà chỉ viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi tác giả phải “nín thở đứng ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”…
– Thế tử bị bệnh có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”. Thế tử chỉ là một đứa bé năm, sáu tuổi nhưng khi xem bệnh tác giả – một cụ già – phải quỳ lạy bốn lạy, xem mạch xong mạch xong lấy lại lạy bốn lạy trước khi lui ra. Muốn xem thân hình thế tử phải có một viên quan nội thần đến xin phép được cởi áo cho thế tử.
b. Sự tinh tế, sắc sảo của tác giả đọng lại ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng, như việc thế tử, một đứa bé, ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc, một cụ già, quỳ dưới đất lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo”. Hoặc khi đi ra vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta mở một chỗ trong màn gấm bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trước gấm như vậy…”. Tác giả chú ý đến các chi tiết bên trong cái màn là nơi “Thánh thượng đang ngự”: “Có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Việc ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa nó phơi bày ra trước mắt người đọc không cần thêm một lời bình luận nào.
– Thái độ và tâm trạng của tác giả: Trước những cảnh được chứng kiến trong phủ chúa, Lê Hữu Trác không bộc lộ trực tiếp thái độ, nhưng qua ngòi bút ghi chép thực hiện sắc sảo và những cảm xúc được ghi lại đây đó, có thể thấy được phần nào thái độ của người viết.
– Đứng trước cảnh phủ chúa xa hoa, lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ, tác giả đã nhận xét: “Bước chân tới đây mới hay cái cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường” và vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả tỏng phủ chúa (với gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngự có hoa thơm, chim biết nói, nghìn tầng cánh cửa lính gác nghiêm ngặt…), trong đó có lời khát quát: “Cả trời Nam sang nhất là đây”.
– Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của đại gia”.
– Đường vào nội cung thế tử được nhận xét là: “Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả”. Cảnh nội cung cũng được miêu tả chi tiết như củng cố thêm cho những nhận xét của tác giả khi vừa vào đến phủ chúa trịnh.
– Nói đến bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: “Vì thế tử ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn no quá, mặc ấm quá nên phủ tạng yếu đi”.
Qua những chi tiết trên, có thể thấy, mặc dù khen cái đẹp, cái sang ở phủ chúa nhưng tác giả lại tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất và không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và không khí tự do.
Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử diễn biến phức tạp. Ông hiểu rõ căn bệnh của thế tử, đưa ra những luận giải hợp lí, thuyết phục và có cách chữa đúng bệnh nhưng lại sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, công danh bó buộc. Để tránh những điều không thích thú này, cần chữa bệnh cầm chừng, cho thuốc vô thưởng, vô phạt. Nhưng làm như thế thì trái với y đức, trái lương tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã thắng. Tác giả dã gạt sang một bên cái sở thích của riêng mình để làm tròn trách nhiệm. Và khi đã quyết, tác giả đã thẳng thắn đưa ra và bảo vệ ý kiến của riêng mình, mặc dù ý kiến đó trái với ý kiến của đa số thầy thuốc thông thường làm cho quan Chánh đường ngần ngại “tỏ ý kiến nói đi nói lại mấy lần”. Những chi tiết về việc chữa bệnh của Lê Hữu Trác đã cho thấy:
+ Tác giả một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và già dặn kinh nghiệm.
+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một con người khinh thường danh lợi quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà. Mặc dù tận mắt chứng kiến sự quyến rũ của vật chất giàu sang, và làm việc được hưởng thụ giàu sang đang nằm tròn tầm tay, nhưng tác giả vẫn dửng dưng không mảy may rung động.
Quan điểm này cũng gián tiếp cho thấy tác giả không đồng tình với việc thụ hưởng lạc thú quá mức xa hoa của những người nắm trọng trách quốc gia. Ý muốn “về núi” của Hải Thượng Lãn Ông là một sự đối nghịch gáy gắt với quan điểm sống của gia đình chúa và bọn quan quyền dưới trướng. Không cần bình luận nhiều, nhưng những thứ song son thiếp vàng, võng điều áo đỏ, đèn đuốc lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…đặt bên cạnh cái thanh đạm của một ông già áo vải “ở nơi quê mùa” tự nó đã phơi bày ra sự tương phản giữa đục và trong.
Do đó, có thể nói tính chân thực của Vào phủ Chúa Trịnh có một giá trị hiện thực hết sức sâu sắc.
Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời qua đó cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi.