Phân tích lẽ sống trong bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Tố Hữu xuất thân trong gia đình tiểu tư sản. Từ ấy là bài thơ ghi nhận kỉ niệm củ Tố Hữu khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ có nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, nó là tuyên ngôn về lẽ sống của một người chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.- Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của tập Từ ấy. Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà.
Bài thơ Từ ấy được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói Từ ấy là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Ngay ở câu thơ đầu tiên ta đã bắt gặp một hình ảnh ẩn dụ rất mạnh mẽ, đó là “bừng nắng hạ”. Chúng ta chắc ai cũng biết, cũng cảm nhận được ánh nắng của mùa hè chói chang đến cỡ nào, có sức lan tỏa đến cỡ nào và rực rỡ ra sao rồi phải không. Nó đủ để làm bừng lên, phát sáng lên mọi góc khuất, mọi nơi tối tăm, cùng cực nhất của thế gian cũng như của tâm hồn con người bị đóng băng, bị che giấu, bao phủ. Tiếp tục với lối ẩn dụ tài tình bằng những hình ảnh như “mặt trời chân lý” như “chói qua tim”. Tác giả của bài thơ Từ ấy tiếp tục trải ra trước mắt ta sự hân hoan, sự vui sướng đến tột cùng của mình. “Mặt trời chân lý” đó chính là những lý tưởng sáng sủa, mới mẻ của Đảng, của cách mạng đang thấm sâu vào từng thớ da thịt, vào tận xương tủy, tới trái tim đang lỗi nhịp, đang khô cằn, phủ bụi của Tố Hữu. Làm cho ông phải dùng đến “vườn hoa lá”, “đậm hương”, “tiếng chim” mới diễn đạt hết những niềm hạnh phúc, những sự hân hoan trong tâm hồn của người chiến sĩ trẻ tuổi lúc bấy giờ. Phải chăng, tâm hồn của người chiến sĩ này trước đây rất mông lung, rất tăm tối nhưng từ khi gặp được lý tưởng ấy, Tố Hữu đã phải ví von, so sánh với “vườn hoa lá” đang ở độ xuân thì, đang sinh sôi, nảy nở với trăm hoa, muông thú cùng khoe hương, khoe sắc, khoe thanh. Sự náo nức, nhiệt huyết, sự mãnh liệt đến cùng cực của niềm vui hân hoan là những gì mà ta cảm nhận được ở khổ thơ mở đầu này. Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó với mọi người:
Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời.
“Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam. Lý tưởng sống mới, lẽ sống mới mà nhà thơ nói đến ở đây là sự tự nguyện đến chân thành khi ông sẵn sàng “buộc” lòng mình với tất cả mọi người, tất cả mọi nơi. Ông nhận mình là một người dân lao động bình thường, là một người đồng bào của đất nước Việt Nam, là người cũng chia sẽ vui buồn, khổ cực, cùng ăn uống, cùng ngủ nghỉ như tất cả mọi người. Và tất cả gắn kết họ thành một đại gia đình, thành một khối thống nhất khôn gì tách rời được. Ở câu cuối cùng của khổ thơ thứ hai, ta thấy chú ý nhất ở hai từ “khối đời”. Hai từ này bao hàm rất rộng rãi, có nhiều ý nghĩa mông lung, không rõ ràng. Nhưng ở bài thơ này, nó là nhiều, là vô vàn, vô số cuộc đời được gắn kết, được chia sẽ, được bao bọc lấy nhau tạo thành một khối thống nhất, vững chắc, liên kết với nhau như những người thân ruột thịt trong gia đình mà không gì có thể lung lay hay chia cắt được.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bấc cù bơ.
Từ một người đã từng sống trong cảnh tối tăm, mất phương hướng, Tố Hữu bây giờ đã là con, là em, là anh của đại gia đình nhân dân lao đọng nghèo khổ. Hiện tại trái ngược với quá khứ. Ông đang trở thành chỗ dựa, thành nơi khai sáng và cũng là lý tưởng, nguồn chân lý của những người có kiếp sống “phôi pha”, nhạt nhẽo, đáng thương, của những đứa em nhỏ bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời vô định và không biết đến ngày mai “cù bất cù bơ”. Tưởng như ta chỉ bắt gặp tính từ “cù bất cù bơ” này trong những câu nói của người dân lao động nghèo khổ khi họ đang nói chuyện với nhau mà thôi. Vậy mà trong Từ ấy ta bắt gặp sự gần gũi thường ngày đó. Bởi giờ ông không phải mang tâm thế của một người đi khai sáng, mà là con, là em, là anh của họ. Người chiến sĩ trẻ ấy sống cùng với họ, trải qua mọi dắng cay khổ cực, cũng nhau san sẽ, chia sớt những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, những nỗi nhọc nhằn lo toan thường ngày. Việc nhà thơ nhấn mạnh, lặp đi lặp lại từ “là” để cho người đọc có cảm giác chắc chắn, bền chặt, gắn bó keo sơn giữa ông với những người dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, Từ ấy đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
Bài thơ Từ ấy của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng – tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.