Văn mẫu lớp 12

Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù

Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài 1

Có những phút làm nên lịch sử

Có cái chết hóa thành bất tử

Có những lời hơn mọi bài ca

Có con người như chân lí xinh ra

(Hãy nhớ lấy lời tôi – Tố Hữu)

Mỗi khi đọc những vần thơ đầy xúc động về người anh hùng liệt sĩ Nguyễm Văn Trỗi, không hiểu sao, tôi thường hay nghĩ đến Huấn Cao – nhân vật chính trong tác phẩm “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân . Có phải chăng bởi Huấn Cao cũng chính là hiện thân của một con người như chân lí sinh ra với cái chết hóa thành bất tử? Bước chân vào trang văn của Nguyễn Tuân , ta mới thấy rõ được điều đó. Đâu đó quanh tôi văng vẳng tiếng mõ vang trên vọng canh, hình ảnh bó đuốc cháy đỏ ngòm, tôi chợt nhìn thấy một tên tù cổ đeo gông, chân vứơng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Đó có phải là Huấn Cao? Có lẽ vậy, bởi tôi đang chiêm ngưỡng những thước phim sáng tạo xuất thần cuối cùng trong “Chữ người tử tù” – cảnh cho chữ.

Nếu ai đã từng đọc “Chữ người tử tù” hẳn sẽ thấy, cảnh cho chữ xây dựng dựa trên tình huống éo le, oái ăm, đầy kịch tính. Đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục. Ơ phương diện nghệ thuật, Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, tột bậc. Còn quản ngục là kẻ liên tài, nói theo ngôn nghữ hiện đại, Huấn Cao là thần tượng của quản ngục. Trên bình diện xã hội, họ lại là kẻ thù không đội trời chung với nhau: tử tù và quản ngục, kẻ chống lại triều đình và người bảo về triều đình.Quản ngụ khao khát xin chữ của Huấn Cao, nhưng Huấn Cao lạnh lùng khinh bỉ quản ngục. Quản ngục càng khép nép hạ mình đến buồng giam của Huấn Cao cung kính giãi bày những lời chân thành, thì đáp lại lời chân tình của  quản ngục là hành động xua đuổi, sỉ nhục. Mâu thuẫn kịch tính nhanh chóng đầy tới cao trào. Tình huống truyện thắt nút khi quản ngục nhận công văn khẩn ngày mai phải giải Huấn Cao vào kinh chịu án tử hình. Liên tiếp những câu hỏi đặt ra trong tâm trí người đọc: Liệu quản ngục có dám giáp mặt với Huấn Cao lần nữa. Quản ngục có kịp giãi bày sở nguyện cao quý của mình? Và liệu Huấn Cao có hiểu tấm lòng của quản ngục. Và những băn khoăn của người đọc được giải đáp khi cảnh cho chữ diễn ra.

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” khép lại bằng một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Trước hết, ta thấy nơi diễn ra cảnh cho chữ thật vô vùng lạ. Chơi chữ vốn là thúc chơi thanh cao của những tao nhân mặc khách. Cho chữ, tặng chữ, công việc ấy thường diễn ra ở thư phòng sang trọng hay những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Đằng này Huấn Cao cho chữ quản ngục chữ ngay tại phòng giam của từ tù chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Tác phẩm thư pháp được sáng tạo ngay tại tù ngục, cái đẹp được khai sinh ở nơi mà cái xấu, cái ác ngữ trị. Đó phải chảng lại một sự lạ lùng hiếm thấy. Hơn nữa, thường thì cảm hứng nghệ thuật thường nảy nở và thăng hoa khi tâm hồn nghệ sĩ thảnh thơi, thư thái. Ở đây, Huấn Cao sáng tạo trong một hoành cảnh vôn cùng ngặt nghèo: cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết đang kề sát cổ. Hiếm có người nghệ sĩ nào lại sáng tạo trong hoàn cảnh éo lê như thế. Cho chữ là cảnh hiếm thấy nơi ngục tù xưa nay. Nếu cho chữ  diễn ra ở đây thì ta luôn nghĩ rằng quản ngục là người cho chữ , kẻ nhận là người tử tù. Ở đây ngược lại, từ tù cho chữ, quản ngục nhận chữ. Càng lạ hơn, từ tù cho chữ, hành động cho chữ của từ tù Huấn Cao hoàn toàn không phải là biếu xén, hối lộ để chạy án. Huấn Cao cho chữ quản ngục để đến đáp tấm lòng coa quý của quản ngục. Xét đến tư thế, vị thế ta lại càng thấy lạ hơn. Về tư thế, tử tù Huấn Cao dù cái chết đang kề sát cổ nhưng vẫn ung dung đĩnh đạc. Trong khi đó, quản ngục khúm núm, cúi đầu, quỳ gốim còn thầy thơ lại run run. Về thái độ, kê đáng ra không việc gì phải sợ thì lại khép nép, sợ sệt. Người đáng ra phải lo âu sợ hãi thì lại không biết sợ là gì. Quản ngục chẳng những không giáo dục từ tù mà trái lại, từ tù giáo dục quản ngục. Và cuối cùng, cái lại nhất là ranh giới giữa quản ngục và từ tù đã hoàn toàn bị phá hủy, Cả hai người họ cùng quây quần bên cái đẹp, giữa họ chỉ còn tình tri kỉ, sâu sắc.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Có thể thấy, không chỉ là cảnh tượng xủa nay chưa từng có, cảnh cho chữ còn là bệ phòng hoản hảo, làm nổi hình, nổi sắc các nhân vật và làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Mọi vẻ đẹp tâm hồn của Huấn Cao và quản ngục đề hội tụ, thăng hoa ở cảnh cho chữ có một không hai này. Trước hết, ở cảnh cho chữ ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Còn với quản ngục, ta thấy được hành động và cử chỉ vô cùng đẹp dẽ và ấn tượng  “ Ngục quan cảm động vái lạy người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹ ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!” Về hành động của quản ngục, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có lời bình chí lí: “Có những cái cúi đầu khiến cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho người ta đê tiện. Nhưng cũng có cái cui đầu bỗng làm cho con người ta trở nên cao cả, lơn lao, lẫm liệt, sang trọng hơn. Đó là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp và thiên lương”. Và cái cúi đầu của quản ngục trước Huấn Cao là một cái cúi đầu sang trọng, lớn lao như thế. Chiêm ngưỡng cái cúi đầu của quản ngục , ta bất giác nhớ đến câu thơ để đời của Cao Báo Quát – nguyên mẫu hình tượng của Huấn Cao: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Có thể thấy, đó đều là những cái cúi đầu để lại cho chúng ta bài học đáng suy ngẫm. Hành động quản ngục vái lạy Huấn Cao chững tỏ quản ngục đã giác ngộ. Quản ngục  đã nhận ra con đường sáng và chúng ta tin quản ngục sẽ có hành động bất ngờ

Cảnh cho chữ, một cảnh tượng quan trọng trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, ở đó không chỉ vẻ đẹp của nhân vật được hội tù mà tư tưởng tài năng nghệ thuật của tác giả được kết tinh. Cảnh cho chữ khảng định sự chiến thắng của ánh sáng, cái thiện, cái đẹp trước bóng tối, cái xấu xa, tàn bạo. Không những vậy, cảnh cho chữ còn khẳng định sức mạnh diều kì của cái đẹp – cái đẹp khai sáng, thức tỉnh con người. Và cái đẹp đó hóa thành bất tử, trường tồn cùng vũ trụ và bản thân nó sẽ không bao giờ chịu sự lụi tàn, sự băng hoại của thời gian. Đồng thời, ở cảnh cho chữ, ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đó là một cảnh xuất thần, một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Qua đó, ông đã thể hiện cái tình yêu tha thiết với truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, đó cũng là biểu tượng thầm kín của tình yêu nước đáng quý. Ngôn ngữ trong cảnh cho chữ trang trọng, cổ kính, giàu chất tạo hình, đậm màu sắc điện ảnh. Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, cái thiện và cái ác, cao cả và thấp hèn, cái đẹp và sự tầm thường đê tiện, …tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn kì lạ của cảnh cho chữ.

Xem thêm:  Nêu suy nghĩ của em về: Khiêm tôn, thật thà, dũng cảm

Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài 2

Trọn đời cống hiến cho cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực để tạo nên "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có" bằng bút pháp đối lập, tương phản của chủ nghĩa lãng mạn.

Cảnh cho chữ trước hết là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối.

Khung cảnh ấy diễn ra vào lúc đêm khuya – đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao ra pháp trường lĩnh án. Cái tối bao trùm lên cả trại giam tỉnh Sơn, nó len vào ô cửa nhà tù "một buồng tối chật hẹp". Trong cái tối tăm của gian phòng giam giữ Huấn Cao có cái tăm tối của chế độ xã hội lúc bấy giờ, nó khiến những người anh hùng như ông Huấn phải đứng lên chống lại cái triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ. Nhưng bóng tối không là một ám ảnh với người đọc như trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam bởi nó nhanh chóng bị đẩy lùi bởi ánh sáng khi Huấn Cao cất bút. Một không gian rực sáng đến chói lòa "không khí tỏa như đám cháy nhà" bởi "ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu". Đến tận khi viết xong bức tranh, ánh sáng ấy vẫn còn giữ nguyên độ nóng: "lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắc nghe xèo xèo". Như vậy, ánh sáng đã ngự trị suốt cảnh cho chữ và phông nền chất liệu để hình ảnh con người xuất hiện. Ánh sáng toát ra từ cảnh cho chữ còn ánh sáng của "tấm lụa trắng tinh căng trên tấm ván". Những ánh sáng hiện diện trong cảnh này đều những gam màu nóng, thanh khiết và nó hoàn toàn đẩy lùi bóng tối bao trùm vũ trụ.

Cảnh cho chữ là sự đối lập giữa không gian cho chữ với hoàn cảnh cho chữ.

Nghệ thuật thư pháp là một thú chơi thanh cao của người xưa. Nó thường được tổ chức ở những nơi thanh tĩnh, trong thư phòng lộng ngát hương hoa hay mỗi dịp tết đến xuân về. Vậy mà ở đây nó lại diễn ra trong một phòng giam "chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất đầy phân chuột, phân gián". Đây là cái nhơ bẩn của chốn giam tù và nó hoàn toàn không xứng đáng với một cuộc cho chữ của ông Huấn, càng không xứng đáng bởi đây là những nét cuối cùng của đời ông. Nguyễn Tuân đẩy nhân vật đẹp nhất đời văn của mình vào một tình thế éo le xong chính vì thế mà nhân cách và tấm lòng con người càng tỏa sáng.

Dù xung quanh có bẩn thỉu thì nơi thu hút cái nhìn của ba con người là "phiến lụa óng". Hiện thân của cái đẹp, trong sáng, thuần khiết, trình bạch. Trên tấm lụa ấy nổi bật "những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người" – nó là tấm lòng và khí phách của Huấn Cao. Cả không gian cho chữ tràn ngập trong mùi thơm của hồ, của chậu mực "thoi mực thầy mua ở đây mà thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?". Hương thơm ấy đã xua tan đi sự hôi hám vốn có nơi phòng giam người tử tù. Nó cũng là biểu tượng của cái đẹp, cái tinh khiết đối lập với cái nhơ bẩn, phàm tục…tư thế của người cho chữ đối lập với người xin chữ.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Huệ Chi trong Huệ Chi đêm tân hôn của Nguyên Hồng

Trên bình diện xã hội, họ là hai con người đối lập nhau: một người là tử tù, một người là cai ngục nhưng trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ của nhau. Xuất hiện trong cảnh cho chữ là một ông Huấn trong tư thế đĩnh đạc "đang dậm tô nét chữ" còn quản ngục "khúm núm", thơ lại "run run". Ủy quyền và sự tự tin của công chức mẫn cán trong xã hội cũ đã bị tâm quyền, cái đẹp làm cho nao núng, khuất phục, tất cả đã tạo nên một cuộc đảo lộn ghê gớm đang diễn ra trong vị thế của các nhân vật. Không những thế, khi viết xong nét chữ, Huấn Cao còn bán cho quản ngục những lời di huấn thiêng liêng về đạo lý làm người. Hai lần trong một câu thoại, Huấn Cao khuyên quản ngục "nên thay chốn ở đi", "thầy hãy tìm về quê đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ" cho thấy, điều mà người nghệ sĩ này mong mỏi là quản ngục được sống trong môi trường đúng với cái thiên lương của mình. Còn ngục quan thì "cảm động, vái người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Đó là giọt nước mắt của sự thành tâm, kính phục, tâm phục, sự phục thiện như đóa sen thơm giữa bùn lầy nơi con người quản ngục.

Nó khiến cho nhân vật này trở nên cao cả hơn, giống như cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy "nhất sinh đê thủ bái hoa mai" (Cả đời ta chỉ biết cúi lạy trước một loại hoa, đó là hoa mai). Cả hai nhân vật đã xích lại gần nhau hơn và cư xử với nhau theo nguyên tắc của cái đẹp, đang hành xử theo đạo chi kỉ: ông Huấn trong những giây phút cuối cùng đã tìm thêm cho mình một tri kỉ ở đời, còn quản ngục đã dám cởi bỏ lối sống "xanh vỏ đỏ lòng" để thật sự là mình. Ta có thể tin tưởng rằng Huấn Cao sẽ mỉm cười mãn nguyện trước khi lĩnh án, còn quản ngục sẽ thay chốn ở, tìm về quê, sống một cuộc sống thuần hậu để gìn giữ cái tâm. Cuộc gặp gỡ này trở thành cuộc hạnh ngộ với cả hai người. 

Post Comment