Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương
Bài thơ thể hiện hai tâm trạng tưởng chừng như trái ngược không thống nhất trong bản lĩnh, tính cách của Hồ Xuân Hương: Vừa buồn tủi, vừa phẫn uất nhưng cuối cùng vẫn động lại xót xa.
1. Hai câu đề
Nỗi buồn tủi của Hồ Xuân Hương được gợi lên giữa một đêm khuya:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Thông thường, giữa không gian rợn ngợp, con người cảm thấy mình như nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thủy, vô chung như không gian nhưng chứa đựng trong bước đi của nó còn là sự phá hủy. So với hai câu thơ đầu bài Tự tình I: “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” thì ở bài thơ này nỗi buồn lại được nâng lên gấp bội. Cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống, vừa là sự cảm nhận, vừa là bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng.
Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian cứ gấp gáp trôi đi thì chỉ còn lại sự bẽ bàng:
Trơ cái hồng nhan với nước non
Từ trơ được đặt đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ cho thấy, bên cạnh bản lĩnh Xuân Hương vẫn là nỗi đau của Xuân Hương. “Trơ” là tủi hổ. “Trơ” là bẽ bàng. Hai chữ “Hồng nhan” đi kèm với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” với “nước non” không chỉ là sự dãi dầu mà còn là sự cay đắng. Dù câu thơ chỉ nói về một vế “hồng nhan” nhưng vẫn nổi lên vế “bạc phận”, vì vậy, nỗi xót xa càng ngẫm lại càng đau. Nhịp điệu câu thơ: “Trơ/cái hồng nhan/với nước non” cũng thể hiện sâu sắc sự bẽ bàng.
Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau chính là bản lĩnh của Hồ Xuân Hương, bản lĩnh ấy thể hiện ngay trong chữ “trơ”. Chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. Từ “trơ” kết hợp với từ “nước non” thể hiện sự bền gan, thách đố.
2. Hai câu thực
Nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Dường như Xuân Hương “ngồi nhẫn tàn canh” ngồi một mình trong cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Cảnh tình Hồ Xuân Hương được thể hiện qua hình tượng thơ chứa đựng hai lần bi kịch: Trăng sắp tàn (Bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi thanh xuân trôi qua mà duyên vẫn không trọn vẹn. Hương rượu để lại vị chát đắng, hương tình thoảng qua còn phận hẩm duyên ôi. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo.
3. Hai câu luận là nỗi niềm phẫn uất:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Thiên nhiên như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé mà hèn mọn, còn hèm mọn hơn cả “cỏ nội hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn. lại phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật lên sự phẫn uất của thân phận đất đá. Bên cạnh đó, những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo đã thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Rêu xiên mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, vạch trời hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là sự phản kháng. Cách sử dụng bổ ngữ xuất sắc của Xuân Hương làm cho cảnh vật lúc nào cũng sinh động, tràn đầy sức sống ngay cả khi ở tình huống thê thảm nhất.
4. Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời bạc bẽo, éo le. Xuân đi rồi lại lại, tạo hóa là một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân trôi đi rồi lại quay trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cỏ cây, hoa lá, nhưng với con người thì tuổi xuân đi qua không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình đã bé còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn “tí con con” trở nên xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có thể là từ tâm trạng của người đã mang cảnh lấy chồng chung. Câu thơ được viết cho người mang thân phận làm lẽ. Tuy nhiên, cái tầm khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi với họ hạnh phúc là chiếc chăn quá hẹp.
Có lẽ vì cả hai điều, vừa đâu buồn, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. vì cả hai điều ấy mà ý nghĩa nhân văn của bài Tự tình II sâu sắc, thấm thía hơn.
Kết luận: Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Vừa đau buồn, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ cho thấy bản lĩnh và tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm”.