Văn mẫu lớp 10

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 10

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Nam Định

Thơ văn Nguyễn Du tự như một Kim tự tháp sừng sững giữa đất trời mênh mông. Ba mặt của Kim tự tháp ấy, mỗi mặt đều mang một vẻ đẹp lạ kì. Mặt chính điện óng ánh sắc màu. “Truyện Kiều”, “Văn chiêu hồn”. “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Mặt trái cấu trúc bằng một thứ vật liệu dân dã với “Thác lời trai phường Nón”, với “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”. Và mặt phải của ngôi tháp là những lớp men ngọc, những khối đá hoa cương đã được tạo, được khắc bằng Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp tục”. Nhân dân ta rất lấy làm tự hào về thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Nếu “Truyện Kiều” là công trình nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du về nỗi đau và niềm vui của những kiếp người thì thơ chữ Hán lại cho thấy một cách trực diện và khám phá tài tình của ông về cái thế giới sâu thẳm ẩn náu trong đáy tâm hồn nhà thơ. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: “Chính Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du”.

Từ những cảm nhận ấy, mỗi một chúng ta sẽ xúc động biết bao khi đọc bài thơ Độc Tiểu Thanh kí” của Tố Như. Tiểu Thanh là ai? Đó là một cô gái “nổi danh tài sắc một thì”, sống vào đầu thời Minh. Nàng lấy làm lẽ một thương gia tên Phùng. Vợ cả đánh ghen, bắt nàng “biệt cư” trong một ngôi nhà trên núi Côn Sơn cạnh Tây Hổ. Tiểu Thanh có một tập thơ nói lên cuộc đời khát khao hạnh phúc và đầy nước mắt của mình. Tiểu Thanh đau khổ mà chết giữa lúc tuổi vừa mười tám xuân xanh, nàng chết rồi mà tập thơ của nàng vẫn bị vợ cả đem đốt, may còn sót lại một số trang, một số bài và được người ta chép lại gọi là phần Dư ảo. Thi hào Nguyễn Du trẽn đường đi sứ đã qua Tây Hồ, đã đến viếng mộ Tiểu Thanh và đọc tập thơ Dư ảo của nàng. Đọc hai câu trong phần đề ta cảm nhận rõ điều đó. Đúng là bài thơ Độc Tiểu Thanh kí” nằm trong “Bắc hành tạp lục”.

Từ lúc Tiểu Thanh sống và chết đến lúc Nguyễn Du đi sứ (1813) qua Tây Hồ đã hơn ba trăm năm. Đã có bao vật đổi sao dời, biển dâu-dâu biển. Thế mà một vài bài thơ mỏng manh của nàng Tiểu Thanh vẫn làm cho một nhà thơ phương Nam rơi lệ? Mở đầu bài thơ là cả một sự bùi ngùi thương cảm:

“Tây Hồ hoa uyển tần thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

“Hoa uyến” và “khư” là hai khái niệm chuyển hoá đối lập. Cảnh xưa đẹp thế nay đã hoang tàn, phế tích. Chữ “tần” nghĩa là hết, là kiệt cùng. Bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương, đau buồn. Nơi gò hoang đấy chỉ còn lại nấm mồ người bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chi thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Thương cuộc đời bể dâu cũng là thương người; thương người bạc mệnh cũng là thương mình. Xót xa và thương cảm. Đó là niềm cảm thông của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh, cửa người đang sống với người đã khuất. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” vẫn làm cho Nguyền Du thổn thức, rơi lệ!

Hai câu trong phần thực như chứa đầy cái uất ức của Tố Như:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

“Chi-phấn” là son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là hiện thân cho tài năng của nàng. Nguyễn Du hỏi đời và hỏi người nhưng mà là để khẳng định: Son phấn có thần, sau khi chết, người ta còn xót thương, tiếc nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng về những bài thơ còn sót lại sau khi bị đốt! Son phấn và văn chương như những chứng nhân về cuộc đời, về kiếp người oan khổ, li hận! Vì thế nên son phấn sắc đẹp thì “có thần”, nó vẫn sống mãi với thời gian và lòng người như Tây Phi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi,… Cũng như hoa tàn nhưng hương hoa, linh hồn hoa còn tỏa ngát đâu đây, sắc đẹp của giai nhân sống mãi cùng tên tuổi họ. “Thác là thế phách, còn là tinh anh”. Nỗi hận và xót xa của “son phấn” chính là nỗi đau thương, nỗi hận của nàng Tiểu Thanh: tuổi trẻ bị chôn vùi, sắc đẹp bị hãm hại! Văn chương là tài năng, là vẻ đẹp tinh thần của Tiểu Thanh. Văn chương vốn vô mệnh vì nó vô tri, đâu có sống, chết như người. Ấy vậy mà “mảnh giấy tàn” của người bạc mệnh “vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”, chống chọi lại cái ác, vươn lên mà tồn tại làm nhức nhối người đời, xưa và nay. Nguyễn Du nói về “son phấn” và “văn chương” là để khẳng định, ngợi ca tài sắc nàng Tiểu Thanh, của mọi tài tử giai nhân trong cuộc đời dâu bể. Và chính Nguyễn Du với cảm quan của người nghệ sĩ liên tài từ “mảnh giấy tàn” mà nói lên nỗi uất hận ngàn đời của Tiểu Thanh, của những hồng nhan bạc mệnh!

Nghĩ về sắc tài giai nhân, về cái đẹp trong cõi nhân gian, Nguyễn Du xót xa suy ngẫm về lẽ đời và tình người trong mọi điều oan trái, qua cặp câu luận:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư”.

Sự oán hận xưa nay khó mà hỏi trời được. Đất dày, trời cao “Oan này còn một kêu trời nhưng xa” (Truyện Kiều). Nói hỏi trời vì không thể hỏi người. Và khi đã “thiên nan vấn” tức là nỗi bế tắc, oan khổ đầy rẫy mọi nơi, mọi chốn. Câu thơ như một tiếng kêu thương rung động cõi đất, trời. Và nỗi oan phong vận kì lạ kia, ta tự mình lại buộc lấy mình. Phong nhã, phong lưu cùng với hào hoa là vẻ đẹp, là bản sắc tinh anh của con người. Trong cõi đời đã mấy ai được phong nhã hào hoa? Phong lưu là niềm mơ ước của nhiều người. Sao Nguyễn Du lại gọi là “cái án phong lưu”? Khách phong lưu đáng nhẽ được hưởng cái nhàn nhã, thảnh thơi cuộc đời sao lại phải mang cái án oái oăm vào mình? Đúng là nghịch lí, nghịch cảnh. “Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ!”. “Đã bao đời nay”, cái án phong lưu ấy đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách. Nguyễn Du đâu phải là kẻ “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” mà là nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điểu day dứt, băn khoăn bao đời nay. Khách tài tử phong lưu đã tri âm với giai nhân bạc mệnh là như vậy. Họ là tài tình, là cái đẹp, là khát vọng về cái đẹp, nên họ cảm thương nhau. Nguyễn Du đã cảm thương Dương Quý Phi (Dương Phi cố lí), đã “thổn thức” Tiểu Thanh,… với cái tâm của một khách tài tử. Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu, ông càng thương mình bấy nhiêu. “Độc Tiểu Thanh kí” là khúc bi ai thương người, cũng là lời tự thương đau xót. Hai câu kết là một tiếng nấc:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.”

Nguyễn Du là một bạc tài tử trong đời. Tiểu Thanh là một khách hồng nhan. Nguyễn Du tìm thấy giữa mình và người con gái ấy có những: nét đồng bệnh tương liên”. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chết trong đau khổ, lưu lại với đời “nhất chỉ thư”, một mảnh giấy tàn, thế mà hơn ba trăm năm sau còn có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Rồi nhà thơ tự khóc mình mà cất tiếng hỏi: Liệu sau khi ông mất, hơn ba trăm năm, trong thiên hạ còn có ai cảm thương ông? Hai câu kết này rất nổi tiếng. Ai từng đọc Nguyễn Du đều nhớ. Tôi vẫn rất thích hai câu thơ dịch của Xuân Diệu:

“Ba trăm năm nữa mơ màng,

Có ai thiến hạ khóc chàng Tố Như”.

Câu thơ chứa đầy tâm sự, tâm trạng. “Một tấm lòng vẫn giấu che, bỗng lộ trong một giây phút, chệch nhẹ bức mành, mà ta trông được cà một thế giới còn chưa nói” (“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu). Câu thơ như tiếng khóc xót đau cho số phận mình. Ở nơi đất khách quê người trong những tháng ngày đi sứ, Tố Như càng cảm thấy mình bơ vơ, không kẻ tri âm tri kỉ, một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: “Người đời ai khóc Tố Như chăng?”.

Viết về Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có câu: “Tiếng thơ ai động đất trời…”. Sau khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử, Nguyễn Du cất tiếng nghẹn ngào:

“Thương thay cũng một kiếp người,

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”.

Ở trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”, ông lại xót xa hỏi: “Son phấn có thản chôn vẫn hận – Văn chương vô mệnh đốt cồn vương?”. Bài thơ cho ta thấy niềm thương cảm sâu xa của Tố Như đối với con người là vô cùng mênh mông. Đời người hữu hạn, nỗi đau của con người – con người bạc mệnh là vô hạn. Đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”, chúng ta càng thấy rõ cái tâm của nhà thơ lớn dân tộc, càng vô cùng thấm thía chất nhân văn trong thơ chữ Hán của Tố Như.

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 2

Nguyễn Du dường như có một tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chính vì thế những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh được nhà thơ đặc biệt quan tâm kể về cuộc đời họ trong những trang thơ của mình. Nhắc đến đây thì chúng ta hay nhớ đến tác phẩm Truyện Kiều với nàng Kiều xinh đẹp nhưng bạc mệnh. Thế nhưng nhà thơ Nguyễn Du còn bày tỏ sự thương cảm của một người con gái hồng nhan bạc mệnh khác đó là Tiều Thanh trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí. Đồng thời qua đây ta còn có thể thấy được những tâm sự chất chứa trong nỗi lòng của Nguyễn Du.

Xem thêm:  Soạn bài Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đuợc bảo vệ và phát triển của trẻ em

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, chính vì thế ta đi phân tích lần lượt theo kết cấu của thể thơ để thấy được số phận người con gái chết oan ức ấy đã được Nguyễn Du cảm nhận như thế nào qua cảnh vật Tây Hồ. Đồng thời chúng ta cũng hiểu được những tâm sự của nhà thơ muốn gửi đến độc giả.

Trước hết là hai câu thơ đầu, cảnh Tây hồ hiện lên không đẹp một cách bình thường mà nó mang đến sự oan khuất của người đã mất:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
(Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. )

Cái cảnh Hồ Tây kia tưởng chừng là cảnh đẹp nhưng lại không phải, hiện tại bây giờ nó đã hóa gò hoang. Cái chứ “hoang” kia như thể hiện được hết những hoang sơ không bóng người không một âm thanh nơi đây. Cảnh tượng như khắc vào trong lòng người đọc những âm u cùng cốc của cảnh vật. không biết rằng cảnh còn đẹp nhưng cái chết của người con gái đẹp kia làm cho nhà thơ cảm thấy nó không còn đẹp nữa hay là cảnh đẹp ngày xưa nay đã không còn đẹp như trước. Phải chăng chính cái chết oan của người con gái kia làm cho nó không còn đẹp như trước nữa và phải chăng là điều đó chỉ có nhà thơ cảm nhận được thôi?. Dù hiểu thế nào đi chăng nữa thì nơi đây quả thật có một sự âm u quá lớn. Người con gái Tiểu Thanh khi còn sống đàn ca, họa thơ làm cho cảnh Tây Hồ vốn đẹp cũng đẹp hơn nên khi nàng bị người vợ cả của chồng hãm hại mà chết thì cái chết ấy cùng với sự uất hận làm cho cảnh Tây Hồ không còn được như trước nữa. Bên song mảnh giấy như được nhân hóa mang một tâm trạng thổn thức  không yên. Mảnh giấy tàn ấy mà vẫn có thể thổn thức được nữa sao hay đó chính là tâm trạng của người con gái đã mất. Cô không cam tâm với kết cục số phận mình nên thổn thức. Nhưng cũng có một ý nghĩa là mảnh giấy ấy chính là bài ký mà nhà thơ thể hiện sự đồng cảm của mình viếng nàng đã khuất mà thôi. Tóm lại qua hai câu thơ đầu ta thấy được một cảnh tượng thể hiện sự thương xót uất hận.

Đến hai câu thơ sau nhà thơ đi vào nói đến sự nghiệp văn chương của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Và ở đây nhà thơ như tìm được một người đồng điệu với tâm hồn văn chương của mình:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư. ”
(Son phấn có hồn chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương. )

Hai câu thơ đầu như là cái nền để nói đến hai câu sau, chính cái chết làm cho Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang kia lại làm cho con người ấy dẫu bị chôn vùi trong hàng ngàn lớp đất cũng vẫn hận. Hình ảnh “son phấn” kia để chỉ người con gái Tiểu Thanh xinh đẹp. Ở đây nhà thơ không cần nói đến sự xinh đẹp của nàng Tiểu Thanh mà chỉ cần qua hình ảnh ấy ta cũng hiểu được ẩn ý của nhà thơ để thể hiện người con gái xinh đẹp ấy. Tuy nàng đã bị chôn vùi xuống dưới lớp đất kia nhưng hồn nàng cũng vẫn hận. Văn chương của nàng như vẫn còn vương trên cõi đời này. Người con gái kia thì còn có mệnh chứ văn chương kia có mệnh hay không. Cái mệnh của văn chương phụ thuộc vào cái mệnh của người sáng tác ra nó. Vậy người sáng tác ra nó mất đi rồi nhưng văn chương kia đốt hãy còn vương trên cõi đời này. Như vậy là cái mệnh văn chương kia còn dài hơn cái mệnh của người con gái.

Chính bởi tài sắc, chính bởi hồng nhan những bạc mệnh ấy cho nên nàng Tiểu Thanh chết đi để lại nỗi hờn kim cổ. Đó là một nỗi uất hận sâu sắc :

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư. ”
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang. )

Nỗi hờn kim cổ ấy biết hỏi trời tại sao được nhưng trời cũng không trả lời được vì cái án phong lưu ấy khách tự mang vào người mình thôi. Ở đây Nguyễn Du thể hiện quan điểm của bản thân mình về chữ tài và chữ mệnh. Người con gái càng xinh đẹp càng tài sắc trong cái xã hội cũ ấy thì chỉ có thể có một mệnh bạc bẽo mà thôi:

“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Nguyễn Du thấy được nàng là người cùng hội cùng thuyền với mình về cái sự phong nhã, cái sự nghiệp văn chương. Thế nhưng lại mắc phải cái oan ức lạ thường mà người trung đại trọng nam khinh nữ làm nên.

Hai câu thơ cuối cất lên với những tâm sự mà Nguyễn Du thể hiện cho chính mình:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)

Nhà thơ khóc thương cho người con gái ấy còn không biết rằng khi nhà thơ mất đi có ai khóc ông như ông khóc nàng Tiểu Thanh hay không. Ông cũng có những tính cách phong nhã như nàng, cũng có cái án văn chương ấy liệu rằng khi ông mất đi rồi không biết có ai đồng điệu với tâm hồn văn chương của ông mà khóc thương cho ông hay không. Và câu hỏi ấy đã kết thúc bài thơ và để câu trả lời cho người đời sau trả lời hộ.

Như vậy qua bài thơ ta thấy được số phận của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Đồng thời ta cũng thấy được những tâm sự của nhà thơ Nguyễn Du về sau này. Và thực tế đã cho thấy người đời ngày nay vẫn ca tụng đến ông với sự tài hoa qua truyện Kiều.

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 3

Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.

Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh”, là nạn nhân của cái quy luật “hồng nhan đa truân”. Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế:

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
và: “Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm

nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long Thành…. Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la ở ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh – một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật :

Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ “tận” như muốn xoá sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ còn gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu:

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
(Truyện Kiều)

Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là “thập loại chúng sinh” đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa.

Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du nhắc đến trong hai câu luận:

Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang

Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay, chỉ có những kẻ cùng hội cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: “Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là cái mối thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”. Quả thực cái sự vô tình, trớ trêu của tạo hoá với những kẻ tài năng đã trở thành mối hận của muôn đời và khắp chốn.

Xem thêm:  Tuần 11 - Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiêủ Thanh là tình cảm của những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc còn có được một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc, tài hoa “hữu thần” ấy còn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ “tài tử đa cùng” lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết còn ai trong thiên hạ tưởng nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn không thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm.

Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la.

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 4

Nguyễn Du có mối đồng cảm đặc biệt đối với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Một Đạm Tiên, một Thúy Kiều, một “ Long thành cầm giả ca”…đã làm xác động trái tim của nhân loại. Và đây là những giọt nước mắt của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của một cô gái tài hoa sống cách nhà thơ ba trăm năm, trong một bài thơ chữ Hán nổi tiếng “ Độc Tiểu Thanh kí”. Ông có nỗi ám ảnh về những kiếp hồng nhan bạc mệnh , về những kiếp nghệ sĩ tài hoa và ông cũng muốn người đời sẻ chia với những kiếp hồng nhan bạc mệnh:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận.
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Có thể là bài thơ được Nguyễn Du viết vào thời gian đi sứ Trung Quốc, nhận đọc được một tập thơ của Tiểu Thanh ( có ý kiến cho rằng không phải là tập thơ mà là một tập truyện viết về Tiểu Thanh ), một người con gái tài sắc mà bất hạnh sống vào đầu đời Minh ( Trung Quốc ). Tiểu Thanh làm lẽ, bị vợ cả ghen bắt ở ngôi nhà riêng trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nàng buồn mà chết lúc mới mười tám tuổi. Nàng có tập thơ bị vợ cả ghen đem đốt. Tập thơ còn lại một phần và được người đời chép lại. Tập thơ cháy dở ( hay là đọc truyện mà biết được chi tiết này) của một người con gái bạc mệnh đã xáo trộn tâm hồn nhà thơ:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Gò hoang chính là núi Cô Sơn, nơi cấm cố nàng Tiểu Thanh. Gò hoang bên cạnh cảnh đẹp Hồ Tây càng gợi nỗi thương tâm của thi nhân . Sự lãng quên của người đời cứ hiển hiện ra đấy. Ngồi bên cửa sổ , nhà thơ thổn thức khi đọc tập thơ ( phần dư cảo ) của Tiểu Thanh mà ông gọi là mảnh giấy tàn ( thực ra do cách hiểu của người dịch mà thành ra “ mảnh giấy tàn” chứ trong nguyên chữ “ thư” có nghĩa là sách, có thể là thơ cũng có thể là truyện ). Văn chương cũng chịu số phận bi đát của hồng nhan. Cũng là mối tình , cũng là kẻ “ cùng hội cùng thuyền”, nhà thơ cảm thấy xót thương cho Tiểu Thanh mà cũng là xot thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh.

Thổn thức trước những vần thơ bạc mệnh, trước kiếp tài hoa xấu số, nhà thơ suy tưởng về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh:

Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Câu thơ “ son phấn có thần chôn vẫn hận” nguyên văn chữ Hán là “ chi phấn hữu thần liên tử hậu”. “ Son phấn có thần” chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Trần Trọng San dịch hơi khác Vũ Tam Tập, ông dịch là “ son phấn có tinh anh nên khi chết rồi vẫn còn có người thương xót”. Do câu trúc đa nghĩa của thơ mà có nhiều cách dịch khác nhau như vậy và cũng khiến cho thơ đầy bí mật. trong những vật gắn liền với người con gái, Nguyễn Du đã chọn son phấn và ông đã nhân cách hóa son phấn để suy tưởng. “ Son phấn có thần” chắc phải xót xa vì nó đã gắn bó với người con gái bạc mệnh. Thật ra là một cách nhà thơ thương xót, hận cho Tiểu Thanh. Văn chương làm gì có “ mệnh” mà cũng bị đốt, bị lụy. Từ “ lụy” trong nguyên tác rất hay, diễn tả được nỗi oan của văn chương mà cũng chính là nỗi oan khuất của kẻ tài hoa.

Chuyển sang hai câu luận, nhà thơ triết lí về thân phận bé nhỏ của con người và cảm thấy đau đớn, xót xa cho Tiểu Thanh, cho chính mình:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.

Nỗi đau của Tiểu Thanh nằm trong nỗi đau lớn của nhân loại. Mà nỗi hận của người đời xưa nay không thể hỏi trời được:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
( Cổ kim hận sự thiên nan vấn)

Câu thơ nguyên tác, với những thanh trắc : ( cổ, hận, sự , vấn ) diễn tả một cách bi phẫn nỗi đau của những kiếp người thấp cổ bé họng. Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái THIỆN, cái MĨ trước cái ác. Nhà thơ tự thấy là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã:

Cái án phong lưu khách tự mang
( Phong vận kì oan ngã tự cư)

Chữ “ ngã” rất lạ. Nhà thơ đã tự xưng “ ngã” ( tôi) để nhập thân vào với Tiểu Thanh như trong “ Truyện Kiều” để gợi lên những điều nhức nhối của nhân thế.

Đau đớn trước nỗi oan kì lạ của Tiểu Thanh, xót xa trước sự lãng quên của người đời , nhà thơ khóc cho Tiểu Thanh, một co gái tài hoa bạc mệnh hơn ba trăm năm và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Tại sao lại là “ ba trăm năm lẻ” mà không là con số khác? Là vì nhà thơ đang thổn thức với tập thơ cháy dở của Tiểu Thanh, một nữ sĩ tài hoa cách đó hơn ba trăm năm. Tiểu Thanh bất hạnh, nhưng hơn ba trăm năm sau đã có người chia sẻ. Liệu hơn ba trăm năm sau “ người đời ai khóc Tố Như”? Ai sẽ là người khóc cho con người đang khóc Tiểu Thanh hôm nay? Một lời tự vấn xót xa. Một câu hỏi cho ba trăm năm sau như vậy là vì những điều trông thấy bấy giờ. Cuộc đời đen bạc, quyền sống của con người bị chà đạp. Đâu là người tri âm, tri kỉ? Cô đơn đến tột cùng. Khi thì nhà thơ nhập thân vào với Thúy Kiều “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, khi thì nhà thơ nhập thân với Tiểu Thanh để kêu lên một tiếng xé lòng:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Hiểu như vậy rồi, tôi lại tự hoài nghi về sự hiểu biết của mình vì vừa rồi trên báo Giáo dục và Thời đại, giáo sư Bùi Văn Nguyên có cho biết hai câu kết trong bài “ Dộc Tiểu Thanh kí” không phải của bài thơ này. Đây là hai câu thơ khẩu chiếm, là lời trối trăng của Nguyễn Du trước khi qua đời. Không biết ai đã lấy hai câu thơ khẩu chiếm ráp vào bài “ Độc Tiểu Thanh kí”. Còn hai câu kết của bài thơ này thì bị thất lạc. Giáo sư Bùi Văn Nguyên biện luận rất chặt chẽ. Xin dẫn ra đây một lập luận của giáo sư về hình thức. Bài thơ “ Độc Tiểu Thanh kí” là bài thơ luật bằng vần bằng. vậy mà chữ thứ hai của câu kết lại trắc ( hạ). Như vậy bài thơ thất niêm. Một bậc đại thi hào như Nguyễn Du không thể để lại cho đời một bài thơ thất niêm.

Đó là thông tin khoa học mới nhất. Bây giờ lại trở về với công việc “ lôi thôi sĩ tử”

Bài thơ thể hiện tinh thần cao quý của Nguyễn Du. Ông có tình yêu thương mênh mông đối với những kiếp tài hoa bạc mệnh dù là người Việt Nam hay người Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình, thương cảm, xót xa về nỗi cô đơn của mình. Một chữ “ ngã” ( tôi) sừng sững giữa nền văn học phi ngã , chứng tỏ một nhân cách lớn , một tâm hồn lớn.Ông đau đời vì đời chưa thắng được cái ác. Nhưng chính những giọt nước mắt thương đau của ông trên mồ Đạm Tiên, trên mảnh giấy tàn của Tiểu Thanh đã góp phần công phá vào thành lũy của cái ác. Chính vì vậy mà chưa đợi đến ba trăm năm, nhân dân ta và Hội đồng hòa bình thế giới đã kỉ niệm hai trăm năm ngày sinh của nhà đại thi hào ( 1960), thiên hạ đã “ khấp” Tố Như.

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 5

Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với Truyện Kiều thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day rứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông.

Xem thêm:  Phân tích bài ca dao: Trèo lên cây bưởi hái hoa…

Cảnh Hồ Tây gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó không đẹp phảng phất ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:

“Tây Hồ hoa uyển tán thành khư
 Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. )

Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói là gò hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì không. Nó chỉ còn lại một gò hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cô phải chịu. Nó không còn đẹp nữa giống như người con gái ấy không còn nữa. Tây Hồ thành gò hoang cũng như cô ấy đã ra đi và giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô mà thôi. Hai chữ “thồn thức” như gợi lên bao đau đớn buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.

Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiên cho nhà thơ cảm nhận được:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương. )

Son phấn ở đây chỉ nhằm nói đến Tiểu Thanh, son phấn để chỉ người phụ nữ bởi nó là một vật trang điểm khiến cho nhan sắc của những người phụ nữ thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp hơn. Tác giả như cảm nhận thấy được cái thần thái của người con gái ấy vẫn còn đâu đây mặc dù bị chôn đi nhưng mà nỗi hận vẫn còn. Chính nhà thơ dùng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận được điều đó. Và chính cái chết ấy đã mang đi sự nghiệp văn chương của cô. Vốn dĩ nó còn được phát triển nữa nhưng thật sự không thể được vì cái người làm ra nó vì xinh đẹp mà bị giết hại. Có thể nói nhan sắc kia đã làm cho văn chương bị liên lụy. Thế nhưng những tác phẩm văn chương của nàng tiểu Thanh ấy dù bị đốt đi nhưng hãy còn vương. Văn chương đâu có mệnh có linh hồn vậy mà ở đây lại có. Tất cả để nói lên rằng linh hồn của tiểu Thanh.

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,   
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang. )”

Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:

“có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,   .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)

Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trôi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du cũng mất đi nhưng không biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn trở về số phận mình.  Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngay nay thì người ta đã nhớ đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.

Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du – Bài làm 6

1.  Vì sao Nguyễn Du lại đồng cảm với số phận của Tiểu Thanh?

Nguyễn Du đồng cảm với Tiểu Thanh vì cho rằng mình cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh: cùng là những nghệ sĩ tài hoa mà bất hạnh. Cũng như Chu Mạnh Trinh sau này khóc Kiều “Ta cũng nòi tình, thương người bạc mệnh”.

2.   “Nỗi hơn kim cổ” có nghĩa là gì? Vì sao tác giả lại cho là “khó có thể hỏi trời”?

“Nỗi hờn kim cổ” dịch nghĩa của “cổ kim hận sự” (nỗi hận xưa nay), ý nói sự nghiệt ngã của tạo hóa, luôn đối xử bất công với nghệ sĩ tài hoa. Dưới thời phong kiến, các nghệ sĩ tài hoa thường khó tránh khỏi bất hạnh.

Tác giả cho là “khó có thể hỏi trời” (thiên nan vân), vì theo tác giả, đây là “nỗi khổ của muôn đời”, con người khó mà làm thay đổi được. Tư tưởng này thể hiện: sự bất lực của người xưa trước những bất công trong xã hội.

3.  Thương cảm và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh, điều đó nói lên điều gì tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du?

Thương cảm và đồng cảm với Tiểu Thanh, một người con gái có tài văn chương nhưng đoản mệnh, sống từ thời nhà Minh ở Trung Quốc, điều đó chứng tỏ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua mọi ranh giới không gian và thời gian – một cảm xúc nhân đạo bao la và sâu sắc.

4.  Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề của toàn bài?

a.  Vai trò của 2 câu đầu (đề): mở ra toàn bộ khung cảnh, hoàn cảnh, nhân vật, sự việc, cảm xúc…

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

(Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

b.  Vai trò của hai câu 3, 4 (thực): phát triển hình tượng cảm xúc, nêu lên nỗi khổ của một người.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

(Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh dốt còn vương)

c.  Vai trò của câu 5, 6 (luận): chuyển cảm xúc, mở rộng ý, và nâng cao tầm tư tưởng, nói đến nỗi khổ của muôn đời.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang)

d.  Vai trò của câu 7, 8 (kết): nêu cảm xúc và kết thúc bài thơ, mở ra hướng duy ngẫm và dư vị trong lòng người đọc.

 Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Không biết ba trăm năm lẻ nữa

Thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Post Comment