Văn mẫu lớp 9

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Đề bài: Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Bài làm

Mỗi chúng ta ai cũng có một tuổi thơ, đó là những năm tháng êm đềm nhất mà qua rồi chúng ta luôn nhớ về. Trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ Bằng Việt có sự xuất hiện của người bà hiền hậu bên bếp lửa. Những năm tháng hồn nhiên ấy, bà đã dạy cho ông biết bao điều. Bài thơ Bếp lửa như một lời cảm ơn sâu sắc mà tác giả dành tặng cho người bà của mình. Chính bà đã nuôi dạy nhà thơ nên người trong những năm tháng bố mẹ của ông đi công tác xa không về.

Nhà thơ Bằng Việt trưởng thành trong kháng chiến chồng Mỹ, ngôn ngữ thơ của ông dung dị mà lay động lòng người. Ông làm thơ từ khi còn trẻ. Bài thơ Bếp lửa là một sáng tác khi ông mới 19 tuổi và lúc đó đang du học ở Liên Xô. Bài thơ là một chuỗi những kỉ niệm của tác giả về người bà thân yêu của mình. Qua đó, tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn thành kính đối với bà, đối với quê hương nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Nỗi nhớ về bà được khơi gợi từ một hình ảnh, một món đồ quen thuộc đối với tất cả người dân Việt Nam thời bấy giờ đó chính là bếp lửa. Chắc hẳn ở nơi phương xa, tác giả đã nhớ da diết ngọn lửa sáng bừng và ấm áp tình người của bếp lửa quê nhà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

phan tich bai tho bep lua - Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Phân tích bài thơ Bếp lửa

Ngay từ câu mở đầu tác giả đã có sự liên tưởng vô cùng chính xác đó là sự liên tưởng khói bếp với sương sớm. Khói bếp “chờn vờn” và lan tỏa khắp mọi nơi giống như sương mù buổi sớm vậy. Nó khiến cho cảnh vật trở nên mờ ảo và không rõ ràng. Thế nhưng nó lại chứa biết bao nhiêu nồng đượm của tình người. Bếp lửa ôm vào lòng mình những tình cảm đậm sâu cũng giống như tình thương mà người cháu dành cho người bà của mình. Người bà đã không quản ngại nắng mưa để nuôi cháu nên người. Thông qua tình thương của cháu, người bà xuất hiện một cách thật nhẹ nhàng. Kí ức mờ ảo như sương khói nhưng cảm xúc thì vụt sáng như ngọn lửa. Từ đây, tình cảm của hai bà cháu dần dần hiện lên một cách đầy rõ nét:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu

Xem thêm:  Tả cô giáo đang giảng bài

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Những câu thơ là sự hoài niệm của Bằng Việt về những năm tháng tuổi thơ khi ông còn sống trong sự bao bọc, chở che của bà. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị và cách xưng hô “cháu” khiến người đọc có cảm giác như đây là một lá thư tâm tình mà tác giả muốn gửi tới bà của mình. Tuổi thơ của những đứa trẻ lớn lên thường có hình ảnh của cô tiên, ông bụt trong những câu chuyện cổ tích. Còn câu chuyện cổ tích mà tác giả đang kể có hình ảnh của bà và bếp lửa. Năm ấy là những năm 1945 đói khổ nhất của người dân nước Việt. Con người gầy rộc đi vì đói, chỉ còn lại da bọc xương rồi họ cũng chết lả ở khắp các ngả đường. Thế nhưng, nhờ có bà, nhờ có ánh lửa bập bùng mà tác giả đã xua tan được cái không khí rợn người ấy. Ai đã từng đun bếp lửa thì sẽ thấy, khói bếp bay vào mắt, vào mũi cay xè. Tác giả hẳn cũng đã từng bị khói bay vào như vậy. Để bây giờ mỗi khi nhớ lại những năm tháng ấy, ông vẫn còn cảm giác như sống mũi cay vì khói. Mùi của khói đã làm át đi cái mùi tử khí trên khắp các phố phường. “Sống mũi cay” cũng là một cách nói giúp tác giả biểu thị niềm xúc động đang trào dâng trong lòng mình.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

8 năm đối với tác giả Bằng Việt đó là một khoảng thời gian dài. Trong suốt 8 năm ấy, ông đã cùng với bà nhóm lên biết bao nhiêu ngọn lửa. Đó là ngọn lửa của bếp nhưng cũng là ngọn lửa của hy vọng, ngọn lửa của tình yêu. Tình yêu dành cho người bà của mình khiến tác giả nhớ về quê hương tuổi thơ. Ông bắt đầu liên tưởng đến tiếng chim tu hú. Đối với người nông dân, tiếng chim tu hú là sự báo hiệu của đồng lúa chín. Còn nhớ nhà thơ Tố Hữu cùng từng viết “Khi con Tu Hú gọi bầy, Lúa chiêm đang chím trái cây ngọt dần”. Tiếng tu hú còn gắn liền với tuổi thơ của tác giả là bởi mỗi khi chim cất tiếng kêu là “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Tiếng tu hú vì vậy mà trở nên da diết hơn. Tiếng tu hú kêu được tác giả nhắc đi nhắc lại tới 3 lần khiến người đọc cảm giác như cũng đang nghe thấy tiếng kêu quanh đâu đây. Tiếng kêu tu hú làm nỗi nhớ thêm trải dài và rộng.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Những năm đói kém, người gần gũi với tác giả nhất là bà. Đến 8 năm kháng chiến chống Mĩ, bà cũng vẫn là người ở bên khi mà:

Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bố mẹ thì đi công tác, chiến tranh thì ác liệt khiến hai bà cháu phải đi tản cư từ nơi này sang nơi khác. Thế nhưng tác giả lại không hề thấy buồn mà ngược lại, trong lòng ông là một niềm hạnh phúc khôn nguôi. Hạnh phúc bởi mỗi ngày ông đều được cùng bà nhóm bếp. Bà đã thay cha thay mẹ để là cánh chim, là nhành hoa chăm sóc cho cháu và nâng đôi cánh giúp cháu bay đi thật xa. Bà chính là người thầy đầu tiên dạy cho cháu những điều hay, lẽ phải trong cuộc sống. Lúc cháu còn nhỏ, bà chính là chỗ dựa vững chắc cả về tinh thần lẫn vật chất. Vậy nên bây giờ khi ở cách xa bà nửa vòng trái đất, nghĩ đến việc bà phải làm tất cả mọi thứ một mình, tác giả đã bật lên câu hỏi “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà”. Câu hỏi tu hú nhưng là hỏi chính mình thể hiện một nỗi nhớ mong bà sâu sắc. Cặp hô ứng bà – cháu được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người có cảm giác hai bà cháu lúc nào cũng sóng đôi bên nhau không rời.

Chiến tranh đã khiến con người ta rơi vào cảnh đói khổ như vậy. Cuộc sống của hai bà cháu cũng có những thời điểm dường như rơi vào bế tắc khi nhà bị cháy, gia đình thì ly tán mỗi người một nơi thế nhưng người bà vẫn lạc quan và nghị lực:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Bản thân mình dù đang gặp khó khăn là túp lều tranh cũ bị cháy rụi nhưng bà vẫn vô cùng bình tĩnh. Bà cũng lo lắng nhưng là lo con biết chuyện rồi không yên tâm làm việc. Vì vậy mà bà đã dặn người cháu không được nhắc gì đến chuyện này. Có thể thấy tấm lòng của người bà, người mẹ thật vĩ đại khi lúc nào cũng hy sinh vì con, vì cháu. Ở đây, bà đã không còn là bà của riêng cháu nữa mà là biểu tượng chung cho người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh.

Xem thêm:  Phân tích đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du).

Những câu thơ tiếp theo, tác giả đã diễn tả ngọn lửa trong lòng bà:

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Nói đến ngọn lửa là thấy sự bùng cháy rực rỡ. Nó cũng giống như tấm lòng của bà, giống như niềm tin của bà. Chỉ cần có một ngọn mồi nhỏ là nó sẽ bùng cháy lên. Vì vậy mà hễ đi đâu, chỉ cần nhìn thấy ngọn lửa là cháu sẽ nhớ về bà.

Đến cuối bài thơ, hình ảnh bếp lửa ấp iu nồng đượm được nhắc lại thêm một lần nữa như là sự khẳng định về thứ tình cảm sâu sắc giữa bà và cháu:

Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm

Nhóm lửa nhưng đồng thời cũng là nhóm lên tình yêu thương, đùm bọc giữa con người với con người. Bài thơ là sự nhắc nhở của người bà dành cho người cháu phải biết nhớ về cội nguồn, nhớ về những năm tháng gian khó, nhớ về những con người đã ở bên giúp đỡ ta. Nhóm bếp lửa là “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”

Bà là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của cháu. Vì vậy mà dù cháu đã đi xa thì vẫn không nguôi nỗi nhớ về bà:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Giữa mùa đông lạnh giá của nước Nga, người cháu đã được sưởi ấm bằng chính tình cảm dành cho bà của mình. Có thể thấy, người cháu nay đã trưởng thành, đã biết lo nghĩ nhiều hơn cho bà và vẫn nhớ như in những lời bà dạy.

Đọc bài thơ lên, người đọc có cảm giác như đang được ngồi bên bếp lửa và nghe một câu chuyện cổ tích cảm động về tình bà cháu. Bài thơ đã truyền lửa tới cho bao nhiêu thế hệ giúp khơi dậy tình yêu thương trong mỗi con người.

Nhã Đan

 

Post Comment