Văn mẫu lớp 12

Phân tích bài ca dao: Làm trai quyết chí tu thân, Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo

Phân tích bài ca dao: Làm trai quyết chí tu thân, Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo

Hướng dẫn

Đây là bài ca dao 8 câu lục bát nói về chí làm trai, chí tu thân ở đời. Đây cũng là bài thơ cuộc đời đã trở thành bài học thuộc lòng của bao thế hệ tuổi trẻ thời áo trắng:

Làm trai quyết chí tu thân;…
Có công mài sắt có ngày nên kim.

Mỗi lần đọc bài ca dao này, ta cảm thấy lời căn dặn thiết tha ân tình của ông bà, cha mẹ đang thì thầm bên tai.

2. Làm trai phải có chí, đó là “chí tu thân”: lo học hành siêng năng, lo rèn đức luyện tài, phải kiên nhẫn, bền bỉ trên đường đời. Hai câu đầu nói lên chí nam nhi, chí làm trai:

Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

"Chớ vội” và “chớ lo” là lời khẽ nhắc. Đời người là một trăm năm. Con đường công danh của kẻ nam nhi có nhiều gian nan thử thách, phải “thập niên đăng hỏa” (10 năm đèn sách) nên “chớ vội”. “Chớ vội” vì không thể “ăn xổi ở thì”, vì “dục tốc tất bất đạt". “Nợ nần” được nói ở đây là nợ đèn sách, nợ công danh, sự nghiệp của kẻ làm trai, của đấng nam nhi trong xã hội ngày xưa.

Phải nhìn cho rộng cho xa, phải nghĩ cho kĩ, sẵn sàng đón nhận cơ hội: “Khi nên trời giúp công cho”. Nói là “trời giúp”, nhưng thực sự là nói lên lòng tin, tự tin ở trí tuệ, tài năng, phẩm hạnh của mình, của kẻ làm trai có chí khí, bản lĩnh:

Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.

“Năm liệu, bảy lo” là biết kiên trì và nhẫn nại, biết cách sống đẹp, biết nhìn xa trông rộng, biết luyện trí, đua tài, biết “dùi mài kinh sử”. Có sống như thế mới là sống đẹp. “Mới hào” nghĩa là mới vẻ vang. Không thể sống tầm thường. Không thể nhìn bàng đôi mắt của con lươn; không thể quẩn quanh cối xay kiếm đôi ba hạt thóc rơi như con gà; cũng không thể sống theo tiếng mõ của chú lềnh trong cái làng xôi thịt. Kẻ làm trai phải "quyết chí tu thân”, phải “năm liệu, bảy lo" mới có thê’ làm nên sự nghiệp, mới có thể trả được món nợ công danh, mới vẻ vang, “mới hào".

Xem thêm:  Kể về một chuyến về thăm quê ngoại hoặc quê nội

Lần thứ hai, nhà thơ dân gian lại nói đến “trời”, lại nhắc đến “trời", ở trên là “trời giúp”, ở đây là “trời sinh”, “trời chẳng phụ”:

Trời sinh trời chẳng phụ nào',
Phong vân gặp hội, anh hào ra tay.

Phong vân: phong là gió, vân là mây; phong vân gặp hội là gặp hội gió mây, hội đua tài, thi cử của kẻ sĩ. Anh hào ra tay: người có chí khí và tài giỏi đem kiến thức, học vấn ra thi thố với thiên hạ để chiếm bảng vàng.

Hai câu 5, 6 của bài ca dao là lời động viên kẻ làm trai, chỉ ra một mục tiêu đẹp, một niềm mơ ước đẹp. Thư sinh, hàn sĩ phải nàng cao chí khí, phải dùi mài kinh sử bền bỉ, kicn trì mới có thể trở thành anh hào.

Cuối thế kỉ XIX, Nguyền Khuyến đã thi Hương, thi Hội, thi Đình, đã đỗ đầu cả 3 khoa thi. Ông mới tự hào nói:

Học chẳng có rằng hay chi cả,
Cưỡi dầu người kể dã ha phen.
(Di chúc)

Có "quyết chí tu thân", có bền bỉ phấn đấu nhiều năm tháng, từng "năm liệu, hủy lò' mới có thể chiếm được bảng vàng trong "hội phong vân”, mới có thể "cưỡi đẩu người" như Nguyễn Khuyên và nhiều bậc tài danh khác. Đến thăm Văn Miếu Thăng Long, chiêm ngưỡng 82 bia Tiến sĩ, ta mới xúc động nghĩ về hội phong vân và các bậc anh hào ngày xưa.

Xem thêm:  Anh/chị hãy phân tích cảnh đẹp thiên nhiên và tâm trạng của túc giả trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hai câu cuối bài ca dao khẳng định một chân lí, mượn câu tục ngữ mài sắt nên kim đổ ncu lên một bài học về tinh thần bền bỉ, kiên trì nhẫn nại đối với kẻ làm trai trong cuộc đời:

Trí khôn sắp đê dạ này,
Có công mài sắt cố ngày nên kim.

Lời ca cất lên như một tiếng reo vui. Bài học về chí làm trai, về sự tu thân trở nên thấm thìa, có tác dụng động viên và giáo dục sâu sắc đối với kẻ nam nhi, đấng tài trai mọi thời.

3. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) nhà thơ lớn trong thế kỉ XIX, đã từng đỗ thủ khoa trường Nghệ, khoa thi Hương (1820). Ông để lại nhiều bài thơ nói về Chí nam nhi, Nợ tang hồng, Chí anh hùng, Đi thi tự vịnh, v.v… Bài thơ nào cũng đầy chí khí hăm hở của kẻ nam nhi, của đấng tài trai:

Đi không há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
(Đi thi tự vịnh)

Nợ đèn sách dem nghiên hút trả xong,
Cầu xe ngựa lúc đi vé mới tỏ.
(Nợ tang bồng)

Vùng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả, giả vay.
Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
(Chí anh hùng)

Đã mang tiếng ở trong trời đất.
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)

Đọc những câu thơ ấy của Nguyễn Công Trứ, ta mới hiểu và cảm sâu hơn bài ca dao "Làm trai quyết chí tu thân" này.

4. Bài ca dao trên đây đã ra đời trong xã hội phong kiến ngày xưa. Đối tượng được nói đến chì là kẻ làm trai, đấng nam nhi. Lời khuyên chỉ là tu thân, mài sắt nên kim để đua tài trong hội phong vân, nhung thế hệ trẻ ngày nay (cả nam lẫn nữ) vẫn cảm thấy rung động thấm thìa. Bài học "quyết chí tu thân", "năm liệu, bảy lo”, "Có công mài sắt, có ngày nên kim" vẫn có nhiều ý nghĩa và tác dụng giáo dục tích cực, không hề cũ kĩ.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Tuổi trẻ chúng ta lớn lên trong một hoàn cảnh thuận lợi, tốt đẹp: đất nước hòa bình, đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa,… Hội phong vân đã mở rộng cánh cửa, các trường Đại học, Cao đẳng đón chào tuổi trẻ đem tài năng, học vấn để đua tranh, để thi thố, để hiến dâng,… 

Không thể sống tầm thường. Tương lai đẹp đang chờ đón chúng ta. Có bền bỉ học tập, có kiên trì rèn luyện mới trở nên tài giỏi để phục vụ và hiến dâng, để được vẻ vang, hạnh phúc.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Post Comment