Văn mẫu lớp 10

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 1

Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh TẾ Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bạch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẫm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

 “Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:

… “Tiếng thơm đồn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt

Nhớ người xưa chừ lệ chan…”

Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh

Hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng giang phú”.

“Giương buồm giong gió chơi vơi”.

“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.

Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…

Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:

“Nơi có người đi

Đâu mà chẳng biết”.

Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.

“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.

Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.

“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”

“Bát ngát sóng kình muôn dặm”

Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang –Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

“ Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô

Bpờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” ( “Cửa Biển Bạch Đằng”).

Trương Hán Siêu miêu tả dòn sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

“ Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.

Một tâm trạng: “ buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “ đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:

“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”.

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 2

Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê ở tỉnh Ninh Bình. Là một danh sĩ, một ông quan, một nhà thơ, từng là môn khách của Hưng Đạo Vương, Trần Quốc Tuấn. Lúc ông qua đời được vua Trần truy tặng Thiếu Bảo, được thờ ở Văn Miếu:

Hữu hoài Trương Thiếu bảo Bí khắc tiễn hoa ban.

(Dục Thuý Sơn – Nguyễn Trãi)

Trương Hán Siêu còn để lại 4 bài thơ và 3 bài văn: Dục Thuý Sơn khắc thạch, Linh Tế tháp kí, Khai Nghiêm tự bi, Bạch Đằng giang phú,… Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài: Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu, ta có thể đoán được, bài phú này chí có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất tức là vào khoảng 1301 – 1354.

Bạch Đàng giang phú được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về Bạch Đằng giang phú dựa trên van bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú có thể và phú Đường luật. Phú cổ thế như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ, có những kiểu câu được qui phạm rõ ràng. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết theo lời phú có thể, có vần nhưng vẫn sử dụng phép đối rất sáng tạo:

… Tiếng thơm đồn mãi

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sống chừ ủ mặt 

Nhớ người xưa chừ lệ chan…

Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ; dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi bao anh hùng, gắn liền với chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Đất nước hiểm trở, nhiều nhân tài, hào kiệt đức cao đã tạo nên truyền thống anh hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của Bạch Đằng giang phú.

1. Giương buồm trong gió chơi vơi

Khách có kẻ trong Bạch Đằng giang phú là nhân vật trữ tình, không ai khác mà đó chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật khách không mấy xa lạ. Ngọc tỉnh liên phú (Bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (? – 1346) cũng có nhân vật khách.

… Khách có kẻ: Nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng ; Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung … Khách ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tâm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.

Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu, cho thấy khách là một tao nhân với bầu rượu túi thơ chơi vơi theo cách buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi niềm sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa, gần. Đêm thì chơi trăng mải miết, ngày thì sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.

Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông; ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thối giang hồ của minh:

Nơi có người đi 

Đâu mà chẳng biết.

Các địa danh xa lạ ấy, không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và tráng chí bốn phương mới có thể giương buồm… lướt bể đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà khách đã chứa vài trăm trong dạ, đã thăm thú nhiều lần, đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn tha thiết với bốn phương trời. Một lối nói khoa trương và ẩn dụ tạo nên câu văn đẹp thể hiện một tâm hồn đẹp:

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn thiết tha thiết.

Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ nhàn làm trọng, gián tiếp phủ định danh lợi tầm thường.

2. Qua cửa Đại Thanh… đến sông Bạch Đằng…

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui của nhà thơ khi đến sông Bạch Đằng.

Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa học Tử Trường đi về phía Đông Bắc Buông chèo cho thoả chí tiêu diêu. Người xưa nói: Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử kí bất hủ, nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem như là du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

Xem thêm:  Thông báo về việc khóa địa chỉ IP (địa chỉ máy tính) do bình luận spam

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều 

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo.

3. Bát ngát sóng kình muôn dặm

Bạch Đằng giang phú – con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu (ba thu) nước trời một màu xanh bao la: Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi chỉ một màu. Nước trời: một sắc – Phong cảnh ba thu. Câu vẫn tả thực, mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài Đằng Vương các: Thu thuỷ cộng trường thiến nhất sắc. (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288 – 1356) viết: Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối. Lầm tưởng rằng máu người chết trận vẫn chưa khô (Bặch Đàng giang – dịch nghĩa) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

Bờ lau san sát 

Bến lách đìu hiu 

Sông chim giáo gãy 

Gò đầy xương khô.

Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu, hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xường cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỉ sau, Ức Trai cũng viết: Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng (Cửa biển Bạch Đàng).

Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng nói về dòng sông lịch sử được diễn tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (1288), nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Một tâm trạng: buồn, thương, tiếc, một cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương vá biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với các anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung uống nước nhớ nguồn.

4. Mà nhục quân thù không rửa nỗi

Các bô lão – nhân vật mới xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả nhà thơ chuyển sang tự sự; ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên. Cảm hứng lịch sử mang âm hưởng anh hùng ca. Khách và bô lão ngắm dòng sông, con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng của tổ tiên.

Đây là chiến địa buổi Trùng hưng nhị thắng bắt Ô Mã,

Củng là bãi đất xưa thửa trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. Đằng giang tự cổ huyết do hồng vì nó là mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc.

Năm 938, Ngô Quyền dùng kì mưu đại phá quân Nam Hán:

Bạch Đàng một trận giao phong,

Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.

Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến – chiến lược bắt sông ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn giặc Nguyên – Mông:

Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông.

(Đại Nam quốc sử diễn ca) 

Trở lại bài phú: Đương khi ấy… đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dờng sông nổi sóng với muôn đội thuyền bè. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt: Tinh kì phấp phới – Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói. Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm Sát Thát, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co: Trận đánh thư hùng chửa phân – Chiến lũy Bắc Nam chống đối. Khói lửa mù trời. Tiếng gươm giáo, tiếng quân reo, tiếng sóng vỗ. Ngựa hí voi gầm. Thuyền chiến giặc bị đốt cháy, bị va vào cọc gỗ bị sắt nhọn vỡ, đắm tan tành. Máu giặc nhuộm đỏ dòng sông. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đồi.

Đại Việt sử kí ghi rõ: Các tướng giặc như Ồ Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu được hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhân lịch sử.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và qui mô hoành tráng, kì vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì quân Tào Tháo tan tác tro bay… quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bàng trước xâm lược của Lưu Cung, của Tất Liệt: Trời củng chiều người –  Hung đồ hết lối. Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.

5. Đất hiểm và nhân tài

Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh phục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền là nhờ có 2 nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng cả áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:

Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở 

Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an.

Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân tài. Cuộc điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước.

Bằng lối so sánh, nhắc lại vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc để lại võ công lừng lẫy một thời, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương người anh hùng vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt:

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng 

Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn. 

Thế giặc nhàn là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy, lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng coi thế giặc nhàn, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn.

Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của Bạch Đằng giang phú.

6. Cốt mình đức cao

Phần cuối bài phú là bài ca của các bô lão và khách về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng giang hùng vĩ một dải dài ghê, là mồ chôn lũ xâm lăng: Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời lưu danh sử sách.

Nhà thơ dành cho 2 vua Trần những lời đẹp đẽ nhất:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Thánh quân là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được đại an; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh mình mà Đại Việt được thanh bình muôn thuở. Một lần nữa, tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước. Bởi đâu đất hiếm, cốt mình đức cao. Đức cao là lòng yêu thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn thời Trần là ngời hào khí Đông A còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu (Trần Quang Khải). Đức cao là nguyên nhân thắng lợi như Trần Quốc Tuấn đã nói: Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức. Đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.

Tóm lại, Bạch Đằng giang phú là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sâu lắng và giọng điệu anh hùng ca, không khí trang trọng, cổ kính, tài hao trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu. Đẹp vậy thay tiếng hát lòng:

Sông Đằng một dải dài ghê.

Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông.

(Theo Tạ Đức Hiền)

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 3

Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Những tác phẩm của ông thường bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế.

Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Bài ca ngợi con sông lịch sử: sông Bạch Đằng.

“Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết.”

“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là Trương Hán Siêu. Ông là một danh sĩ có tấm lòng ngay thẳng , cương trực và một tâm hồn phóng khóang. “Khách” mang cái thú vui hưởng ngoạn, ngao du trên con thuyền cùng trăng thăm thú những cảnh đẹp của đất trời. Biết bao nhiêu vùng miền “khách” đã đặt chân đến:

“Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”.

Câu thơ thể hiện cái hoài bão được đi khắp bốn phương của “khách”, không ngại những vùng đất xa lạ, kì bí.Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh, vậy mà ‘Khách” cũng đã từng qua nhiều cảnh đẹp tương tự thế và mong mỏi được tiếp tục chuyến chu du:

“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.

Theo cánh buồm, Trương Hán Siêu đến với con sông Bạch Đằng:

“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,

Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo”

“Bát ngát sóng kình muôn dặm”

Con sông rộng và dài, mang một vẻ đẹp hùng vĩ. Cảnh núi non, bờ bãi tái hiện cảnh chiến trường một thời:

“ Bờ lau san sát.

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô”

Khung cảnh hoang vu với những “bờ lau”, “bến lách”. “Giáo gãy”, “xương khô” – con sổng Bạch Đằng để lại những dấu tích lịch sử rợn người. Nhưng đó là những dấu tích oai hùng của lujch sử chóng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Mang niềm tự hào, Trương Hán Siêu cũng bày tỏ nỗi niềm tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước:

“ Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”

Những năm tháng của một thời oanh liệt cứ theo những con sóng Bạch Đằng lớp sau xô lớp trước mà trở về:

“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.

Bạch Đằng một trận giao phong

Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu

Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”.

Đó là những trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam:

“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đổi”.

Và con sông Bạch Đằng tồn tại như một chứng nhân lịch sử:

“Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.

Rồi nhà thơ có nhũng chiêm nghiệm, bài học quý giá. Những chiến thắng lấy lừng vẻ vang đó một phần có được là do địa thế, máu chốt quan trọng là nhờ những con người tài năng đã cống hiến, hi sinh mình để bảo vệ độc lập dân tộc:

“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.

Trương Hán Siêu đồng thời ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt:

Xem thêm:  Cảm nghĩ của em khi đọc Truyện lạ nhà thuyền chài trích trong Thánh Tông di thảo.

“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng

Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.

Kết thúc bài phú, ông ca ngợi hai vị vua Trần đã có công giữ gìn và bảo vệ đất nước:

“Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”

Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến ở đây là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là những vị vua sáng suốt, anh minh, yêu nước thương dân đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc để đem lại bài học giữ nước cho muôn đời sau.

Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu mượn hình ảnh con sông Bạch Đằng lưu dấu bao vết tích lich sử oai hùng để thể hiện tình yêu quê hương đất nước của mình. Từ đó, ông bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đồng thời như một lời nhắc nhở những thế hệ mai sau phải biết tiếp nối truyền thống cha anh để lại.

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 4

Sông Bạch Đằng là một trong những địa danh lịch sử với những chiến công lẫy lừng của cha ông ta. Đây cũng là con sông được nhắc đến trong thơ ca với niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong số đó, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm nổi tiếng thời nhà Trần và cũng là một trong số ít những bài phú xuất sắc nhất của van học trung đại Việt Nam.

“Phú sông Bạch Đằng” có tên nguyên tác là “Bạch Đằng giang phú”. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bao la với những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết

Nhân vật “khách” ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích:

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn giản là để ngắm cảnh tiêu giao mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.

Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh quan hùng vĩ:  Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm” cho nên sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.

Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nới diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Nhưng “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính vì thế mà người hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất:

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Tuy có đau buồn nhưng cảm hứng chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

… Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời.

Về phía kẻ địch thì có lực lượng hùng hậu, lại thêm mưu gian kế xảo, “những tưởng tung roi một lần” là có thể “quét sạch Nam Bang bốn cõi”. Thế nhưng, cuộc chiến của quân ta là cuộc chiến chống lại quân xâm lược, là cuộc chiến chính nghĩa, cho nên thuận với lẽ trời, được “trời chiều lòng người”. Lại thêm “trời đất cho nơi hiểm trở” và người lãnh đạo cũng rất mực tài ba. Với chiến thuật, chiến lược đúng đắn, quân dân ta đã chiến thắng vô cùng vẻ vang, khiến cho “nghìn đời ca ngợi”. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm ấy đã có một ý nghĩa rất to lớn trong sựu nghiệp bảo vệ giang sơn của quân dân nhà Trần. Và điều đó càng chứng minh một chân lý:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!

Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những vị vua sáng suốt anh minh, nhờ những thủ lĩnh kiệt xuất cầm binh mà chúng ta đã giành được chiến thắng. Đến đây, tác giả khẳng định:

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.

Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – Bài làm 5

Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng kiệt tác. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc.

Bài thơ được viết theo thể thơ phú. Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Hiện nay, chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài: Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu, ta có thể đoán được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất tức là vào khoảng 1301 – 1354. Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.

Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình :

Khách có kẻ :

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

 Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Truơng Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là nguời cuơng trực, học vấn uyên thâm nhưng con nguời ông phóng khóang và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn đuợc thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nuớc, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là nguời đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tuợng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con nguời yêu thiên nhiên, yêu đất nuớc lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình.  Đêm  thì mải miết chơi với ánh trăng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có nguời ở- Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là nguời đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tuợng trưng nói lên tâm hồn nguời thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phuơng là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… mà tác giả nhắc tới đều mang tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình. Điều đó càng khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên có thể lọt vào mắt xanh của tác giả vốn rất khó tìm.

Thế nhưng tác giả lại đặt chân đến những địa danh quen thuộc của đất nước như : cửa Đại Than,… bến Đông Triều,…và dừng lại ở sông Bạch Đằng… Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét :

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ). Con sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.

Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ:

Xem thêm:  Soạn bài Phò giá về kinh

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !

Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Đây là nới diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Những “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc  đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộc

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Khách đang đắm chìm trong tâm trạng hoài niệm thì các bô lão từ xa đi tới làm cho khách giật mình sực tỉnh trở về với hiện tại. Trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng năm xưa được các bô lão kể lại cho khách nghe một cách hào hứng. Cảm xúc chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

… Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo., sự đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh.

Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng :

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến lũy bắc nam chống đối.

Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí : quân dân ta với ý chí quyết tâm cùng lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa ; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt :

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ lớn lao, được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa.

Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được :

Kìa :

Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi !

Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên – một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ :

Thế nhưng :

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối !

Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc :

Khác nào khi xưa :

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc.

Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời:

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi !

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.

Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh “Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng.

Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép.

Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta.:

Tuy nhiên : Từ có vũ trụ, đã có giang san.

Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ : Nhân tài giữ cuộc điện an.

 Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư). Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước : Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc. Tác giả đưa ra bằng chứng lịch sử xác thực: Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú:

 Hội nào bằng hội Mạnh Tân : như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

 Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác ; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ.

Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn ”. Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng.

Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người.

Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí : những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ :

 Sông Đằng một dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, côt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt.  Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.

Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.

Post Comment